
Chỉ số dòng tiền – Định nghĩa và cách sử dụng MFI
Chỉ số dòng tiền (MFI) là gì?
Chỉ số dòng tiền (MFI) là một chỉ báo dao động kỹ thuật sử dụng dữ liệu về giá và khối lượng để xác định các tín hiệu mua quá mức hoặc bán quá mức trong một tài sản. Nó cũng có thể được sử dụng để phát hiện sự phân kỳ cảnh báo về sự thay đổi xu hướng về giá. Bộ dao động di chuyển trong khoảng từ 0 đến 100.
Không giống như các chỉ báo dao động thông thường như Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI), Chỉ số dòng tiền kết hợp cả dữ liệu giá và khối lượng, thay vì chỉ giá. Vì lý do này, một số nhà phân tích gọi MFI là RSI trọng số khối lượng.
Bài học chính
- Chỉ số dòng tiền (MFI) là một chỉ báo kỹ thuật tạo ra tín hiệu mua quá mức hoặc bán quá mức bằng cách sử dụng cả dữ liệu về giá và khối lượng.
- Chỉ số MFI trên 80 được coi là quá mua và chỉ số MFI dưới 20 được coi là quá bán, mặc dù mức 90 và 10 cũng được sử dụng làm ngưỡng.
- Sự khác biệt giữa chỉ báo và giá là điều đáng chú ý. Ví dụ: nếu chỉ báo tăng trong khi giá giảm hoặc đi ngang thì giá có thể bắt đầu tăng.
:max_bytes(150000):strip_icc():format(webp)/dotdash_INV-final-Money-Flow-Index-MFI-Definition-and-Uses-June-2021-01-71fe69f798dd43e9b72c3d57b77142d8.jpg)
:max_bytes(150000):strip_icc():format(webp)/dotdash_INV-final-Money-Flow-Index-MFI-Definition-and-Uses-June-2021-01-71fe69f798dd43e9b72c3d57b77142d8.jpg)
Hình ảnh của Sabrina Jiang © Investopedia 2021
Công thức tính chỉ số dòng tiền là:
Chỉ số dòng tiền = 1 0 0 − 1 0 0 1 + Tỷ lệ dòng tiền Ở đâu: Tỷ lệ dòng tiền = Dòng tiền dương 14 kỳ Dòng tiền âm 14 kỳ Dòng tiền thô = Giá điển hình * Khối lượng Giá điển hình = Cao + Thấp + Đóng 3 begin{aligned} &text{Chỉ số dòng tiền}=100-frac{100}{1+text{Tỷ lệ dòng tiền}} &textbf{where:} &text{Tỷ lệ dòng tiền }=frac{text{14 Dòng tiền dương trong kỳ}}{text{14 Dòng tiền âm trong kỳ}} &text{Dòng tiền thô}=text{Giá điển hình * Khối lượng} &text {Giá điển hình}=frac{text{Cao + Thấp + Đóng}}{3} end{căn chỉnh}Chỉ số dòng tiền = 1 0 0 − 1 + Tỷ lệ dòng tiền 1 0 0Ở đâu:Tỷ lệ dòng tiền = Dòng tiền âm 14 kỳ Dòng tiền dương 14 kỳDòng tiền thô = Giá điển hình * Khối lượngGiá điển hình = 3 Cao + Thấp + Đóng
Khi giá tăng từ giai đoạn này sang Dòng tiền thô tiếp theo là dương và nó được thêm vào Dòng tiền dương. Khi Dòng tiền thô âm do giá giảm trong khoảng thời gian đó, nó sẽ được thêm vào Dòng tiền âm.
Cách tính chỉ số dòng tiền
Có một số bước để tính Chỉ số dòng tiền. Nếu thực hiện bằng tay thì nên sử dụng bảng tính.
- Tính giá thông thường cho mỗi kỳ trong số 14 kỳ vừa qua.
- Đối với mỗi giai đoạn, hãy đánh dấu xem giá thông thường cao hơn hay thấp hơn giai đoạn trước. Điều này sẽ cho bạn biết dòng tiền thô là dương hay âm.
- Tính toán dòng tiền thô bằng cách nhân giá thông thường với khối lượng trong khoảng thời gian đó. Sử dụng số âm hoặc số dương tùy thuộc vào khoảng thời gian tăng hay giảm (xem bước trên).
- Tính tỷ lệ dòng tiền bằng cách cộng tất cả các dòng tiền dương trong 14 kỳ vừa qua và chia cho các dòng tiền âm trong 14 kỳ vừa qua.
- Tính Chỉ số dòng tiền (MFI) bằng tỷ lệ tìm thấy ở bước bốn.
- Tiếp tục thực hiện các phép tính khi mỗi giai đoạn mới kết thúc, chỉ sử dụng dữ liệu của 14 giai đoạn cuối cùng.
Chỉ số dòng tiền cho bạn biết điều gì?
Một trong những cách chính để sử dụng Chỉ số dòng tiền là khi có sự phân kỳ. Sự phân kỳ là khi bộ dao động đang di chuyển theo hướng ngược lại với giá. Đây là tín hiệu về sự đảo chiều tiềm tàng trong xu hướng giá hiện hành.
Ví dụ: Chỉ số dòng tiền rất cao bắt đầu giảm xuống dưới mức 80 trong khi chứng khoán cơ bản tiếp tục tăng là tín hiệu đảo chiều giá theo hướng giảm. Ngược lại, chỉ số MFI rất thấp tăng lên trên chỉ số 20 trong khi chứng khoán cơ bản tiếp tục bị bán tháo là tín hiệu đảo chiều giá theo hướng tăng.
Các nhà giao dịch cũng theo dõi sự phân kỳ lớn hơn bằng cách sử dụng nhiều sóng trong giá và MFI. Ví dụ: một cổ phiếu đạt đỉnh ở mức 10 đô la, giảm xuống 8 đô la và sau đó tăng lên 12 đô la. Giá đã đạt được hai mức cao liên tiếp, ở mức 10 USD và 12 USD. Nếu MFI tạo mức cao hơn thấp hơn khi giá đạt 12 USD thì chỉ báo này không xác nhận mức cao mới. Điều này có thể báo trước sự sụt giảm giá.
Mức quá mua và quá bán cũng được sử dụng để báo hiệu các cơ hội giao dịch có thể xảy ra. Di chuyển dưới 10 và trên 90 là rất hiếm. Các nhà giao dịch theo dõi MFI di chuyển trở lại trên 10 để báo hiệu một giao dịch mua và giảm xuống dưới 90 để báo hiệu một giao dịch bán.
Những động thái khác ra khỏi vùng quá mua hoặc quá bán cũng có thể hữu ích. Ví dụ: khi một tài sản đang trong xu hướng tăng, việc giảm xuống dưới 20 (hoặc thậm chí 30) và sau đó phục hồi trở lại trên đó có thể cho thấy đợt thoái lui đã kết thúc và xu hướng tăng giá đang tiếp tục. Điều tương tự cũng xảy ra với một xu hướng giảm. Một đợt phục hồi ngắn hạn có thể đẩy MFI lên mức 70 hoặc 80, nhưng khi nó giảm trở lại mức này thì đó có thể là lúc để thực hiện giao dịch bán khống để chuẩn bị cho một đợt giảm khác.
Sự khác biệt giữa Chỉ số dòng tiền và Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI)
MFI và RSI có liên quan rất chặt chẽ với nhau. Sự khác biệt chính là MFI kết hợp khối lượng, trong khi RSI thì không. Những người ủng hộ phân tích khối lượng tin rằng đây là một chỉ báo hàng đầu. Do đó, họ cũng tin rằng MFI sẽ cung cấp tín hiệu và cảnh báo về khả năng đảo chiều một cách kịp thời hơn chỉ báo RSI. Một chỉ báo này không tốt hơn chỉ báo kia, chúng chỉ đơn giản là kết hợp các yếu tố khác nhau và do đó sẽ cung cấp tín hiệu vào những thời điểm khác nhau.
Hạn chế của chỉ số dòng tiền
MFI có khả năng tạo ra tín hiệu sai. Đây là khi chỉ báo thực hiện điều gì đó cho thấy có cơ hội giao dịch tốt, nhưng sau đó giá không di chuyển như mong đợi dẫn đến giao dịch thua lỗ. Ví dụ: sự phân kỳ có thể không dẫn đến sự đảo ngược giá.
Chỉ báo cũng có thể không cảnh báo được điều gì đó quan trọng. Ví dụ: mặc dù đôi khi sự phân kỳ có thể khiến giá đảo chiều nhưng sự phân kỳ sẽ không xuất hiện trong tất cả các lần đảo chiều giá. Vì điều này, các nhà giao dịch nên sử dụng các hình thức phân tích và kiểm soát rủi ro khác và không nên chỉ dựa vào một chỉ báo.